Bệnh suy tĩnh mạch chi dưới thường được nhắc đến là do các van tĩnh mạch bị hỏng.
Ngoài ra, suy tĩnh mạch còn do bị chèn ép từ bên ngoài bởi một khiếm khuyết tự nhiên của cơ thể nhưng không thể chữa khỏi bằng cách điều trị suy tĩnh mạch thông thường.
Giữa năm 2015, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM đăng ký với Bộ Y tế thực hiện kỹ thuật điều trị suy tĩnh mạch do tắc nghẽn bằng can thiệp nội mạch. Đây là kỹ thuật lần đầu tiên thực hiện tại Việt Nam.
Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu
Theo ThS.BS.Lê Thanh Phong – Khoa Lồng ngực mạch máu, Bệnh viện Đại học Y Dược, TP.HCM, trong cơ thể người, động mạch dẫn máu từ tim đến nuôi các cơ quan, sau đó máu sẽ theo tĩnh mạch để quay trở về tim. Đa phần, động mạch và tĩnh mạch sẽ đi song song nhau, trừ một vài nơi động mạch bắt chéo với tĩnh mạch.
Ở phần bụng dưới, động mạch chủ bụng ở vị trí ngang rốn sẽ chia ra thành 2 nhánh để đưa máu xuống 2 chân và tương tự, tĩnh mạch 2 chân đi lên đến vị trí này cũng sẽ hợp lại thành một ngay phía trước cột sống thắt lưng. Như tên gọi của mình, động mạch chậu phải sẽ đập theo nhịp tim và do đó tĩnh mạch chậu trái sẽ bị tác động theo cơ chế “trên đe dưới búa”. Nếu nhịp tim trung bình là 75 lần/phút, tính đến thời điểm 30 tuổi, tĩnh mạch chậu trái đã chịu va đập như thế đến khoảng 1 tỉ 200 triệu lần.
Hậu quả là hiển nhiên, tĩnh mạch chậu vốn mềm mại sẽ biến đổi, mô quanh tĩnh mạch và thành tĩnh mạch sẽ xơ hóa, lòng tĩnh mạch sẽ hẹp lại, có thể xuất hiện nhiều màng ngăn, mạng xơ sợi hoặc nặng hơn là tắc hoàn toàn. Dòng máu tĩnh mạch chảy về tim sẽ chậm lại hoặc bị gián đoạn, làm ứ đọng máu ở chân và gây nên các triệu chứng của bệnh suy tĩnh mạch mạn tính.
Sự bất thường giải phẫu này do bác sĩ May và Thurner ghi nhận đầu tiên vào năm 1957 và sau đó Cockett mô tả các triệu chứng liên quan vào năm 1965 và do đó được gọi là hội chứng Cockett ở châu Âu hay May-Thurner ở Mỹ.
Chèn ép tĩnh mạch chậu có xu hướng tấn công nữ giới
Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu phần lớn gặp ở phái nữ (80%) và các triệu chứng thường khởi phát vào khoảng 20 – 50 tuổi. Các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ này tăng theo tuổi, tình trạng tạo màng ngăn, mạng xơ sợi trong lòng tĩnh mạch chậu từ 22 – 33% và tỷ lệ tĩnh mạch chậu bị chèn ép từ bên ngoài ở các mức độ khác nhau lên đến 66 – 88%.
Điều không may là không phải tất cả các trường hợp chèn ép tĩnh mạch chậu đều có biểu hiện triệu chứng. Các thương tổn này thường yên lặng, và một số sẽ đột ngột nặng lên khi có thêm các yếu tố bất thường khác về hồi lưu tĩnh mạch chi dưới. Có thể vì thế, biểu hiện đầu tiên của bệnh thường xuất hiện sau phẫu thuật, sau khi mang thai, sau thời gian nằm liệt gường hay khi phải làm việc ở tư thế đứng trong thời gian dài…
Biểu hiện của bệnh
Bác sĩ Phong cho biết hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu biểu hiện giống như suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới, hay hội chứng giãn tĩnh mạch vùng chậu hoặc nặng hơn là huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới cấp tính.
Suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính. Các nghiên cứu cho thấy có từ 2 – 5% người bị suy tĩnh mạch chân trái có nguồn gốc từ hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu. Ở nhóm người bệnh này, điều trị suy giãn tĩnh mạch theo cách thông thường sẽ không bao giờ khỏi bệnh. Bệnh biểu hiện bằng tình trạng đau nhức chân, chủ yếu ở chân trái kèm các cảm giác khó chịu khác như mỏi, nặng, cảm giác kiến bò, chuột rút… tăng lên khi đi đứng và giảm đi khi nằm kê chân cao hay mang vớ áp lực, kèm theo tình trạng phù chân, gân xanh đỏ nổi dưới da hoặc có thể loét ở cổ chân.
Hội chứng giãn tĩnh mạch vùng chậu. Do đường dẫn máu chính bị hẹp hay gián đoạn nên máu sẽ phải đi qua các nhánh tĩnh mạch nhỏ để về tim, hậu quả là các tĩnh mạch nhỏ ở vùng bụng sẽ quá tải và giãn to gây nên hội chứng đau mạn tính vùng bụng dưới kèm theo các triệu chứng kích thích đường tiểu tiện, đại tiện và sinh dục.
Bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới cấp tính. Có hơn phân nửa số người bệnh bị huyết khối tĩnh mạch sâu cấp tính chân trái có hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu, và tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân trái cao hơn chân phải gấp 5 lần. Bệnh thường khởi phát đột ngột với tình trạng đau và phù ở chân trái tăng dần, đi kèm các tĩnh mạch mới nổi lên ở vùng đùi và bẹn. Đây là một bệnh rất nguy hiểm, có thể gây tử vong đột ngột do cục máu đông di chuyển về tim gây tắc động mạch phổi hay nhẹ hơn là tình trạng suy tĩnh mạch hậu huyết khối với phù, đau chân và lở loét về sau.
Phương pháp điều trị bệnh chèn ép tĩnh mạch chậu
Trước đây hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu được điều trị bằng phẫu thuật. Đây là một phẫu thuật lớn, phức tạp, mất nhiều máu và gây đau đớn. Ngày nay, với sự phát triển của can thiệp nội mạch, hội chứng này có thể điều trị khỏi qua một vết đâm kim vào tĩnh mạch đùi. Phần tĩnh mạch bị chèn ép sẽ được nong ra và sau đó được đặt stent vào lòng mạch. Khi dòng máu về tim không còn bị cản trở, các hậu quả do sự chèn ép gây ra sẽ không xuất hiện hoặc cải thiện đáng kể khi đã xảy ra.
Việc áp dụng thành công phương pháp nong và đặt stent điều trị hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu mở ra một hướng mới cho việc điều trị các bệnh lý liên quan đến tĩnh mạch khác như hội chứng hậu huyết khối, hội chứng tắc tĩnh mạch chủ trên, hội chứng phù áo khoác…